“Văn minh
hoá” là khái niệm dùng để chỉ sự
biến đổi to lớn về nhiều mặt trong đời sống xã hội ở các nước châu Á do sự thâm
nhập – tiếp nhận văn minh phương Tây từ nửa cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ
XX.
Từ nửa sau
thế kỉ XIX, Việt Nam và Nhật Bản
tiến bước theo những con đường khác
nhau. Nhờ thực hiện Minh Trị Duy tân, Nhật Bản đã hiện đại hoá, văn minh hoá
thành công, xây dựng đất nước “phú quốc cường binh”. Trong khi đó, Việt
Nam trước nguy cơ bị Pháp xâm lược
vẫn tiếp tục thực hiện chính sách đóng
cửa, để cuối cùng bị
thất bại trong cuộc đối đầu chống thực dân Pháp và biến
thành thuộc địa của chúng.
Về phía Nhật
Bản, Chính phủ Minh Trị đã tiến hành văn minh hoá qua một loạt các chính sách
như “phú quốc cường binh”, “thực sản hưng nghiệp”, “thoát Á nhập Âu”... và chủ
trương học tập văn minh phương Tây từ văn minh vật chất đến văn minh
tinh thần, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt xã hội Nhật Bản vào cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX.
Ở Việt
Nam, người Pháp thực hiện
chính sách “khai hoá” đối với thuộc địa ở Đông Dương nhằm đồng hoá Việt Nam. Để đấu
tranh với thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, giới trí thức Việt Nam đã thực
hiện nhiều cuộc vận động phong trào
yêu nước chống Pháp, trong đó có phong
trào Duy tân, Đông kinh nghĩa thục. Các nhà lãnh đạo của các phong trào này đã xem Nhật Bản là một tấm
gương về “Văn minh hoá”, chủ trương học tập các nền văn minh tiên tiến của Nhật
Bản để xây dựng đất nước.
Có thể thấy
“Văn minh hoá” là một hiện tượng lớn ở các nước Đông Á vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, có ảnh hưởng quan trọng đến con đường phát triển của các nước trong
khu vực này. Do đó, việc nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung của “Văn minh hoá”, so
sánh “Văn minh hoá” ở Nhật Bản, Việt Nam và các nước Đông Á khác, đề xuất
những bài học hữu ích cho tiến
trình hiện đại hoá ở Việt Nam là một việc làm có ý nghĩa về lí luận và thực
tiễn.
Trên tinh
thần đó, tháng 12 – 2011, được sự tài trợ của Quỹ giao
lưu quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh đã tổ chức Hội thảo quốc tế : “So sánh Văn minh hoá ở Việt Nam và Nhật
Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”.
Hội thảo đã
quy tụ đông đảo các nhà nghiên cứu đến từ Đại học Waseda, Đại học Hosei, Đại
học Ngoại ngữ Tokyo, Đại học Hiroshima, Đại học Công nghệ Fukuoka, Đại học Điều
dưỡng Niigata (Nhật Bản), Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Giáo dục
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Hồng Đức (Thanh
Hoá), Đại học Vinh, Đại học Sư phạm
và Đại học Khoa học thuộc
Đại học Huế, Đại học Sư phạm
thuộc Đại học Đà Nẵng, Đại
học Duy Tân (Đà Nẵng), Đại học Quy Nhơn, Đại học Phan Thiết, Đại học Sư phạm TP.
Hồ Chí Minh, Đại học Sài Gòn và Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh.
Các báo cáo
của Hội thảo tập trung nghiên cứu và trao đổi về hai chủ đề chính: thứ nhất là
Những vấn đề lí luận về “Văn minh hoá” và “ Văn minh hoá” ở Nhật Bản, Việt Nam
vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX; và thứ hai là So sánh “Văn minh hoá” giữa
Việt Nam và Nhật Bản vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Nhiều báo cáo tham gia Hội thảo đã làm sáng tỏ khái niệm “bunmeikaika” (văn minh khai hoá)
trong tiếng Nhật, theo cách hiểu của người Nhật, những vấn đề về tư tưởng “Văn minh hoá” của giới trí thức khai
sáng Nhật Bản, tiến trình “Văn minh hoá” ở Nhật và những hạn chế của nó. Các nhà nghiên cứu có
nhận thức chung là không tách rời những thành tựu “Văn minh hoá” Nhật Bản ra
khỏi di sản thời Edo, nói cách khác, chính thời Edo đã tạo ra được những nền
tảng cơ bản để tiếp nhận những thành
tựu của văn minh Âu – Mĩ để “Văn minh hoá” Nhật Bản. Điều đáng lưu ý là
trong lúc các nhà nghiên cứu Việt Nam có khuynh hướng đánh giá cao “Văn minh
hoá” ở Nhật Bản, thì các nhà nghiên cứu Nhật Bản trong khi nêu lên những thành quả của “Văn minh hoá” lại chú ý
phân tích những điểm hạn chế của
phong trào này.
Nhiều báo cáo
so sánh những nét giống và khác nhau trong quan niệm và quá trình thực hiện “Văn
minh hoá” ở Nhật và Việt Nam. Qua sự so sánh đó, các tác giả chỉ ra rằng nền
tảng cho sự tiếp nhận văn minh Âu – Mĩ của Nhật Bản có nhiều điểm khác với Việt
Nam và các nước châu Á khác. Đây có lẽ là điểm khác nhau căn bản, dẫn tới phong
trào văn minh khai hoá của Nhật Bản thành
công còn ở các nước châu Á khác thì không thành công. Nhiều bài viết chỉ ra nhiều bài
học cho Việt Nam trong quá trình văn minh hoá,
hiện đại hoá đất nước ta hiện nay qua nghiên cứu văn minh khai hoá ở Nhật Bản
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, các báo cáo đã
đem đến cho chúng ta một cách nhìn toàn diện, đa dạng hơn về những vấn đề xung
quanh “Văn minh hoá” và tiến trình “Văn minh hoá” ở Nhật Bản, Việt Nam và các
nước Đông Á khác. Các báo cáo còn gợi mở ra nhiều vấn đề mới xung quanh vấn đề
“Văn minh hoá” cần được tiếp tục nghiên cứu rộng hơn và sâu
hơn.
Sau Hội thảo,
Bộ môn Nhật Bản học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã tổ
chức lựa chọn, dịch thuật, biên tập để hình thành một cuốn sách có tựa đề Nhật
Bản và Việt Nam: Phong trào “Văn minh hoá” cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX.
Trong khuôn
khổ cuốn sách này, chúng tôi chỉ tuyển chọn một số bài có đề cập sâu và trực
tiếp về các vấn đề của “Văn minh hoá”, tiến trình “Văn minh hoá” ở Nhật Bản,
Việt Nam và so sánh về quan niệm và
tiến trình “Văn minh hoá” giữa hai nước. Các bài còn lại, tuy được nghiên cứu rất công phu và có nhiều kiến giải
mới nhưng không thật liên quan trực
tiếp đến chủ đề cuốn sách, xin được để lại và sử dụng vào dịp
khác.
Nhân dịp này,
thay mặt Bộ môn Nhật Bản học, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cơ quan tài trợ: Quỹ Giao lưu Quốc
tế Nhật Bản; cơ quan giúp đỡ: Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại TP. Hồ Chí Minh; cơ
quan cấp phép: Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh và Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã chỉ đạo, giúp đỡ chúng
tôi tổ chức thành công hội thảo và xuất bản cuốn sách này.
Tôi đặc biệt
cảm ơn các nhà khoa học ở trong và ngoài nước đã tham gia Hội thảo và hoàn chỉnh
bản thảo cho xuất bản. Xin cám ơn Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã giúp đỡ
chúng tôi trong quá trình biên tập và xuất bản. (PGS.TS. Nguyễn Tiến
Lực)
Xin trân
trọng giới thiệu!