Hỗ trợ:
84-028-3845 3333
Giỏ hàng:
0
(0)
Triết học Tây phương từ khởi thủy đến đương đại
Tìm kiếm phân loại
tu-dien-cho-android-sachbaovn.jpg
tu-dien-nhat-viet-sachbaovn.jpg
Hoạt động thành viên
Giới thiệu

Mục  đích của tác phẩm này  – không  muốn  chỉ đơn thuần là một tập hợp những  bản văn – mà còn giới thiệu  tính đa dạng của tư tưởng triết  lý một  cách  rộng  rãi nhất,  từ khởi  thủy đến đương đại, trong sự  tôn trọng tính đa nguyên  của các học thuyết  và các trào  lưu đã tạo nên dòng tư tưởng nhân loại. Triết học là một  mà cũng  là nhiều   và chính sự đa dạng trong nhất tính này (cette  diversité dans l’ unité)  đã mang lại vẻ toàn  mãn  phong phú cho triết học.

Nhằm mục đích đó, chúng  tôi muốn,  trong khi vẫn trang trọng  dành cho các  tác giả – minh chủ (auteurs-phares) và các bản văn kinh điển (textes canoniques) của lịch  sử triết  học, vị trí xứng đáng mà truyền  thống  vẫn dành riêng cho họ, mở rộng  khuôn   khổ các bản văn  đến  những  tác giả và những  trào lưu tư tưởng,  và những  thời đại mà các giáo  trình thông thường ít dành  chỗ và nhiều  khi, chẳng dành cho một chỗ đứng  nào.

Chính theo cách  ấy mà tất cả một  thời kỳ trải  dài  từ đầu  thời  Trung cổ (Boèce)   cho đến cuối thời Phục  hưng (Galilée), nghĩa là khoảng   mười thế kỷ triết học  thường  bị lặng lẽ bỏ rơi cho một  số ít chuyên gia, đã tìm lại vị  trí triết  học cho dòng  chảy  liên  tục từ Thượng cổ. Cũng  thế,  chúng  tôi muốn  rằng những trào lưu tư tưởng thường chỉ được  khảo sát sơ lược hay bất toàn, chẳng hạn  như các chủ thuyết  duy vật hiện  đại, hay là,   ở cực kia, triết học Pháp  của thế  kỷ mười  chín, thoát thai từ Kant hay từ Maine de Biran, sẽ được giới thiệu kỹ lưỡng  hơn trong hợp tuyển này. Chúng  tôi cũng quyết  tâm sao cho nền triết học phân tích của Anh, ít được biết đến tại Pháp, được  quyền  hiện diện chính đáng, trong tư tưởng  thế kỷ hai mươi. Còn đối với một  số tác giả,  như Grotius, mà ngày  nay những  người không  chuyên  môn hầu như chẳng hề biết đến, thế nhưng tầm quan trọng đối với triết học chính trị của các thế kỷ mười bảy  và mười  tám,  là rất đáng  kể.  Hay như Jacobi, mà Kant không  nề hà chọn  làm đối thủ của  mình, là những   thí dụ về những  ý hướng  của chúng  tôi muốn  phục hồi phẩm giá cho vài tên tuổi  lớn mà chỉ những   sử gia triết  học  còn lưu giữ hoài  niệm.

Rất nhiều  trong số những  bản văn  này – hầu như tất cả những  bản văn  liên  quan đến thời Trung cổ và thời Phục   hưng, cũng như nhiều bản văn thời Thượng  cổ được  cập nhật hóa một cách khoa học,  đã được  dịch  hay dịch lại bởi các chuyên  gia đặc trách  về từng thời kỳ  – Đối với những  bản văn triết  học  Đức, chúng  tôi cũng dụng  công như thế.

  hai nguyên lý hướng   dẫn  công  trình của nhóm  chúng  tôi, mà cả hai đều không phải  là không   có những  ngoại lệ.

Nguyên lý thứ nhất  hệ  tại ở  chỗ tự giới hạn  vào những  tác gia triết học, loại trừ lĩnh vực khoa học nhân văn. Vậy nên xin bạn đọc đừng ngạc  nhiên khi thấy vắng bóng một vài tên tuổi  lớn, rất quen thuộc  với công  chúng. Tuy nhiên,  chúng  tôi vẫn bảo lưu một  số văn bản – chẳng hạn  của Freud, một  tác gia vẫn được coi là triết  gia – nơi một cách đặt vấn đề thực  sự triết  lý hiện  diện  rõ ràng,  bởi sự thực là   biên giới  giữa   cái       triết lý   (le philosophique) với cái gì là phi-triết lý (le non- philosophique)  đôi khi cũng khó phân  biệt cho rạch ròi.

Nguyên lý thứ nhì hệ tại ở chỗ nhận  cái trật tự biên  niên  sử trong việc trình bày các tác gia. Trật  tự này có ưu thế  là cho phép  độc giả định vị dễ dàng  các tác gia trong dòng thời gian. Nó cũng chỉ giúp cho tác phẩm  độc lập với những khái niệm  được  hàm chứa trong các chương trình học  tập và những  biến  cải có thể tác động đến  chúng.  Cuối  cùng trật tự này tạo thành một thứ lịch  sử triết học qua triết văn. Tuy nhiên trật tự này không   phải là không   đem lại điều bất tiện. Kiểu trình bày biên niên tạo ra tính bất liên  tục  nó che giấu tính liên tục nằm ở chỗ tầng sâu hơn của những  trào lưu tư tưởng, đôi khi khiến cho các triết  gia cách xa nhau trong thời gian lại  rất gần  gũi nhau trong tư tưởng. Để tránh điều bất tiện chính yếu này, đôi khi chúng  tôi cũng  tự cho phép  tùy tiện một chút đối với kiểu  biên  niên  thuần  túy. Chẳng hạn,việc tôn trọng  nghiêm  ngặt tính biên niên sẽ buộc  phải để Maine de Biran giữa Fichte và Hegel. Nhưng kiểu  trật tự này sẽ phá vỡ không chỉ tính thống  nhất của trào lưu sau Kant mà còn  phá  vỡ tính liên  tục  đã dẫn dắt tư tưởng duy linh của  Pháp   từ Maine  de Biran đến Bergson. Vậy nên trật tự được  chọn  nhận là một kiểu thoả hiệp giữa tính biên  niên  và sự tôn trọng  – có tính thiết yếu trong mắt chúng tôi – đối với một thứ lô-gích   riêng  của lịch  sử triết học.  Cuối cùng, để soi sáng cho độc giả về những  trường   phái  và những  thời kỳ triết học,  chúng  tôi đã đặt ra một số những  cột mốc (Thượng cổ, Trung cổ, Phục  hưng, Hiện đại…) đánh dấu những  tuyến  lớn trong triết học.

Người ta cũng  sẽ tìm thấy trong tác phẩm này, những  tập hồ sơ liên quan đến  lịch  sử tư tưởng (Việc  Kiểm  soát trí thức   ở thời   Trung cổ  – Khoa học huyền bí vào  thế  kỷ 16) và lịch sử  khoa học. (Những lý  thuyết  về bản chất của ánh sáng trong thế  kỷ 17, 18). Thực vậy, nếu các triết gia đọc  của nhau – có khi hiểu   rõ, có khi không  hiểu  rõ lắm  – thì họ cũng đọc những  thứ khác  hơn là triết   học. Những  bản văn triết quy chiếu  về triết  học và kể cả những  cái không   phải  là triết  học, được phác  thảo  một cách  triết  lý, nghĩa là thuần khái niệm (conceptuellement). Những tập  hồ sơ về lịch  sử tư tưởng  và lịch  sử khoa học tìm cách soi sáng  cái bên  ngoài  đó của triết học  mà dầu muốn  hay không triết gia vẫn  luôn  luôn  giữ một mối quan hệ  khá  là lập lờ.

Đối với mỗi tác giả, người  đọc  sẽ gặp một tiểu  sử ngắn,  và một  thư mục  gói gọn những tác phẩm  chính của  vị  ấy và vài công  trình nghiên  cứu phê bình.

Các tác phẩm  quan trọng trở thành  đối tượng của những  chú thích giới thiệu  ngắn gọn.  Các bản văn trích tuyển  được  mở đường bằng một đoạn  dẫn nhập ngắn nhằm khai mở đối tượng   và cách  đặt vấn đề của đoạn văn đó. Một  vài biên  chú hoặc  cước  chú đã được dự  trù nhằm  giúp cho việc đọc hiểu được thuận lợi hơn. Ở  cuối  mỗi bản văn và đôi khi đề xuất  một hay nhiều tham chiếu  đến các thời gian khác  và các bản văn  khác.

Những tham chiếu  này không  hề có nghĩa là một  đồng  nhất  tính giữa khái niệm của bản văn đang bàn và những  khái  niệm  của bản văn mà những  tham chiếu  này nêu lên cho độc giả lưu ý.  Như Eric Weil đã viết,  lịch  sử triết  học  là lịch  sử việc chuyển  di những khái niệm. Như vậy người  ta sẽ không   tìm thấy được  một khái niệm chung cho hai triết gia, nhưng luôn luôn vẫn hữu ích cho việc suy tư khi nêu  lên mối quan hệ giữa  các ý  niệm, gần  gũi nhau hay đối lập nhau, và nắm  bắt được  sự khác biệt để khoanh vùng chính xác hơn ý  nghĩa  của những gì ta đọc. Chính trong tinh thần  đó người  ta phải  sử dụng những tham chiếu  tác phẩm  mà chúng  tôi đã nêu  ra.

Đưa cả hai mươi lăm  thế  kỷ triết  lý vào  chỉ trong khoảng 1200 trang quả  là một  sự  đánh cược  táo bạo. Chúng  tôi lấy làm tiếc phải từ chối không  cho phép hiện diện trong quyển sách  này một  số bản văn  có thể giúp  chúng ta thấy  rõ hơn bước tiến hóa tư tưởng của một triết gia. Muốn  mở rộng  tối đa tác phẩm  đến tính hiện đại nên thường  khi chúng  tôi đành phải giới hạn  ở mức   mỗi   tác  giả  một   vài  bản văn mà thôi (ngoại trừ đối với một  số tác giả- minh chủ như Platon, Aristote, Descartes, Kant, Hegel,  Husserl, Heidegger  v.v…) Thêm  một lần nữa, người  ta lại thấy ở  đây sự thoả hiệp giữa  những   yêu  cầu  triết  lý và những  ràng buộc của thực  tế.

Cuối cùng chúng  tôi muốn  nhắc  nhở món nợ tinh thần mà mọi người đọc – tất nhiên  là kể cả chúng   tôi – đều mang ơn đối  với việc làm vô cùng  hữu ích và đáng  giá của các sử gia lớn của triết học,  những  người  bảo lưu di sản triết  văn,  theo kiểu  diễn  tả của Henri Gouhier, một trong những  triết  sử gia lỗi lạc nhất.  Là những  luận sư (commentatcurs)  của các bản văn lớn, trước  tiên  họ cũng phải là những triết gia. Họ thường suy tư một cách riết  lý về lịch  sử triết  học.  Dầu  không   hiện diện trong hợp tuyển  này, điều  này cũng không  nên khiến  cho chúng  tôi quên  công việc tuy âm  thầm   lặng  lẽ mà có giá trị  rất đáng  kể của họ.

“Tất  cả những  gì quí thì cũng  khó và hiếm”, Spinoza  đã viết  như thế      cuối quyển Đạo đức  học. Chẳng   có một  bản triết  văn nào lại dễ đọc  cả. Chẳng   có một bản triết văn nào để cho ta dễ dàng  đi vào, không  cần phải cố gắng  động  não. Nhưng người  đọc nào  chấp  nhận   cố gắng   đó sẽ cảm thấy  được  tưởng  lệ bởi niềm  vui chưa bao giờ  lỡ  hẹn trong cuộc  hành  trình tìm đạt tri kiến. Niềm vui đó, khi dấn thân vào cuộc nghiên  cứu riêng  tư sẽ còn  được tài bồi  bởi bao niềm mãn nguyện  khác. Niềm vui đó cũng  còn  được chia sẻ  trong những cuộc tranh luận  tự do. Thay vì, giam mình trong cuộc  độc thoại, những  bản triết  văn mở ra cho một hội sống tinh thần  và chỉ trở nên sinh động qua cuộc sống  đó.

Sách liên quan
Sách thường được mua kèm với sách này
Hoạt động của cộng đồng về sách này
Thành phần
Bình luận bạn đọc
Đăng nhập để viết bình luận