Mục đích của tác phẩm này – không muốn chỉ đơn thuần là một tập hợp những bản văn – mà còn giới thiệu tính đa dạng của tư tưởng triết lý một cách rộng rãi nhất, từ khởi thủy đến đương đại, trong sự tôn trọng tính đa nguyên của các học thuyết và các trào lưu đã tạo nên dòng tư tưởng nhân loại.
Triết học là một mà cũng là nhiều và chính sự đa dạng trong nhất
tính này (cette diversité dans l’
unité) đã mang lại vẻ toàn mãn phong phú cho triết học.
Nhằm
mục đích đó, chúng tôi muốn, trong khi vẫn trang trọng dành cho các tác giả – minh chủ (auteurs-phares) và
các bản văn kinh điển (textes canoniques) của lịch sử triết học, vị trí xứng đáng mà truyền thống vẫn dành riêng cho họ, mở rộng khuôn khổ các bản văn đến những tác giả và những trào lưu tư tưởng, và những thời đại mà các giáo trình thông thường ít dành chỗ và nhiều khi, chẳng dành cho một chỗ đứng nào.
Chính
theo cách ấy mà tất cả một thời kỳ trải dài từ đầu thời Trung cổ (Boèce) cho đến cuối thời Phục hưng (Galilée), nghĩa là khoảng mười thế kỷ triết học thường bị lặng lẽ bỏ rơi cho một số ít chuyên gia, đã tìm lại vị trí triết học cho dòng chảy liên tục từ Thượng cổ. Cũng thế, chúng tôi muốn rằng những trào lưu tư tưởng thường chỉ
được khảo sát sơ lược hay bất toàn,
chẳng hạn như các chủ thuyết duy vật hiện đại, hay là, ở cực kia, triết học Pháp của thế kỷ mười chín, thoát thai từ Kant hay từ Maine de
Biran, sẽ được giới thiệu kỹ lưỡng
hơn trong hợp tuyển này. Chúng
tôi cũng quyết tâm sao cho
nền triết học phân tích của Anh, ít được biết đến tại Pháp, được quyền hiện diện chính đáng, trong tư
tưởng thế kỷ hai mươi. Còn đối với
một số tác giả, như Grotius, mà ngày nay những người không chuyên môn hầu như chẳng hề biết đến, thế nhưng
tầm quan trọng đối với triết học chính trị của các thế kỷ mười bảy và mười tám, là rất đáng kể. Hay như Jacobi, mà Kant không nề hà chọn làm đối thủ của mình, là những thí dụ về những ý hướng của chúng tôi muốn phục hồi phẩm giá cho vài tên tuổi lớn mà chỉ những sử gia triết học còn lưu giữ hoài niệm.
Rất
nhiều trong số những bản văn này – hầu như tất cả những bản văn liên quan đến thời Trung cổ và thời Phục hưng, cũng như nhiều bản văn thời
Thượng cổ được cập nhật hóa một cách khoa học, đã được dịch hay dịch lại bởi các chuyên gia đặc trách về từng thời kỳ – Đối với những bản văn triết học Đức, chúng tôi cũng dụng công như thế.
Có hai nguyên lý hướng dẫn công trình của nhóm chúng tôi, mà cả hai đều không phải là không có những ngoại lệ.
Nguyên
lý thứ nhất hệ tại ở chỗ tự giới hạn vào những tác gia triết học, loại trừ lĩnh vực
khoa học nhân văn. Vậy nên xin bạn đọc đừng ngạc nhiên khi thấy vắng bóng một vài tên
tuổi lớn, rất quen thuộc với công chúng. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn bảo lưu một số văn bản – chẳng hạn của Freud, một tác gia vẫn được coi là triết gia – nơi một cách đặt vấn đề thực sự triết lý hiện diện rõ ràng, bởi sự thực là biên giới giữa cái gì
là triết lý (le philosophique) với cái gì là
phi-triết lý (le non- philosophique)
đôi khi cũng khó phân biệt
cho rạch ròi.
Nguyên
lý thứ nhì hệ tại ở chỗ nhận cái
trật tự biên niên sử trong việc trình bày các tác gia.
Trật tự này có ưu thế là cho phép độc giả định vị dễ dàng các tác gia trong dòng thời gian. Nó
cũng chỉ giúp cho tác phẩm độc lập
với những khái niệm được hàm chứa trong các chương trình học tập và những biến cải có thể tác động đến chúng. Cuối cùng trật tự này tạo thành một thứ
lịch sử triết học qua triết văn.
Tuy nhiên trật tự này không
phải là không đem lại
điều bất tiện. Kiểu trình bày biên niên tạo ra tính bất liên tục nó che giấu tính liên tục nằm ở chỗ tầng
sâu hơn của những trào lưu tư
tưởng, đôi khi khiến cho các triết
gia cách xa nhau trong thời gian lại rất gần gũi nhau trong tư tưởng. Để tránh điều
bất tiện chính yếu này, đôi khi chúng
tôi cũng tự cho phép tùy tiện một chút đối với kiểu biên niên thuần túy. Chẳng hạn,việc tôn trọng nghiêm ngặt tính biên niên sẽ buộc phải để Maine de Biran giữa Fichte và
Hegel. Nhưng kiểu trật tự này sẽ
phá vỡ không chỉ tính thống nhất
của trào lưu sau Kant mà còn
phá vỡ tính liên tục đã dẫn dắt tư tưởng duy linh của Pháp từ Maine de Biran đến Bergson. Vậy nên trật tự
được chọn nhận là một kiểu thoả hiệp giữa tính
biên niên và sự tôn trọng – có tính thiết yếu trong mắt chúng tôi
– đối với một thứ lô-gích
riêng của lịch sử triết học. Cuối cùng, để soi sáng cho độc giả về
những trường phái và những thời kỳ triết học, chúng tôi đã đặt ra một số những cột mốc (Thượng cổ, Trung cổ, Phục hưng, Hiện đại…) đánh dấu những tuyến lớn trong triết
học.
Người
ta cũng sẽ tìm thấy trong tác phẩm
này, những tập hồ sơ liên quan
đến lịch sử tư tưởng (Việc Kiểm soát trí thức ở thời Trung cổ – Khoa học huyền bí vào thế kỷ 16) và lịch sử khoa học. (Những lý thuyết về bản chất của ánh sáng trong thế kỷ 17, 18). Thực vậy, nếu các triết gia
đọc của nhau – có khi hiểu rõ, có khi không hiểu rõ lắm – thì họ cũng đọc những thứ khác hơn là triết học. Những bản văn triết quy chiếu về triết học và kể cả những cái không phải là triết học, được phác thảo một cách triết lý, nghĩa là thuần khái niệm
(conceptuellement). Những tập hồ sơ
về lịch sử tư tưởng và lịch sử khoa học tìm cách soi sáng cái bên ngoài đó của triết học mà dầu muốn hay không triết gia vẫn luôn luôn giữ một mối quan hệ khá là lập lờ.
Đối
với mỗi tác giả, người đọc sẽ gặp một tiểu sử ngắn, và một thư mục gói gọn những tác phẩm chính của vị
ấy và vài công trình
nghiên cứu phê
bình.
Các
tác phẩm quan trọng trở thành đối tượng của những chú thích giới thiệu ngắn gọn. Các bản văn trích tuyển được mở đường bằng một đoạn dẫn nhập ngắn nhằm khai mở đối
tượng và cách đặt vấn đề của đoạn văn đó. Một vài biên chú hoặc cước chú đã được dự trù nhằm giúp cho việc đọc hiểu được thuận lợi
hơn. Ở cuối mỗi bản văn và đôi khi đề xuất một hay nhiều tham chiếu đến các thời gian khác và các bản văn khác.
Những
tham chiếu này không hề có nghĩa là một đồng nhất tính giữa khái niệm của bản văn đang bàn
và những khái niệm của bản văn mà những tham chiếu này nêu lên cho độc giả lưu ý. Như Eric Weil đã viết, lịch sử triết học là lịch sử việc chuyển di những khái niệm. Như vậy người ta sẽ không tìm thấy được một khái niệm chung cho hai triết gia,
nhưng luôn luôn vẫn hữu ích cho việc suy tư khi nêu lên mối quan hệ giữa các ý niệm, gần gũi nhau hay đối lập nhau, và nắm bắt được sự khác biệt để khoanh vùng chính xác
hơn ý nghĩa của những gì ta đọc. Chính trong tinh
thần đó người ta phải sử dụng những tham chiếu tác phẩm mà chúng tôi đã nêu ra.
Đưa
cả hai mươi lăm thế kỷ triết lý vào chỉ trong khoảng 1200 trang quả là một sự
đánh cược táo bạo.
Chúng tôi lấy làm tiếc phải từ chối
không cho phép hiện diện trong
quyển sách này một số bản văn có thể giúp chúng ta thấy rõ hơn bước tiến hóa tư tưởng của một
triết gia. Muốn mở rộng tối đa tác phẩm đến tính hiện đại nên thường khi chúng tôi đành phải giới hạn ở mức mỗi tác giả một vài bản văn mà thôi (ngoại trừ đối với
một số tác giả- minh chủ như
Platon, Aristote, Descartes, Kant, Hegel,
Husserl, Heidegger v.v…)
Thêm một lần nữa, người ta lại thấy ở đây sự thoả hiệp giữa những yêu cầu triết lý và những ràng buộc của thực tế.
Cuối
cùng chúng tôi muốn nhắc nhở món nợ tinh thần mà mọi người đọc –
tất nhiên là kể cả chúng tôi – đều mang ơn đối với việc làm vô cùng hữu ích và đáng giá của các sử gia lớn của triết
học, những người bảo lưu di sản triết văn, theo kiểu diễn tả của Henri Gouhier, một trong
những triết sử gia lỗi lạc nhất. Là những luận sư (commentatcurs) của các bản văn lớn, trước tiên họ cũng phải là những triết gia. Họ
thường suy tư một cách riết lý về
lịch sử triết học. Dầu không hiện diện trong hợp tuyển này, điều này cũng không nên khiến cho chúng tôi quên công việc tuy âm thầm lặng lẽ mà có giá trị rất đáng kể của họ.
“Tất cả những gì quí thì cũng khó và hiếm”, Spinoza đã viết như thế ở cuối quyển Đạo đức học. Chẳng có một bản triết văn nào lại dễ đọc cả. Chẳng có một bản triết văn nào để cho ta
dễ dàng đi vào, không cần phải cố gắng động não. Nhưng người đọc nào chấp nhận cố gắng đó sẽ cảm thấy được tưởng lệ bởi niềm vui chưa bao giờ lỡ
hẹn trong cuộc hành trình tìm đạt tri kiến. Niềm vui đó, khi
dấn thân vào cuộc nghiên cứu
riêng tư sẽ còn được tài bồi bởi bao niềm mãn nguyện khác. Niềm vui đó cũng còn được chia sẻ trong những cuộc tranh luận tự do. Thay vì, giam mình trong
cuộc độc thoại, những bản triết văn mở ra cho một hội sống tinh
thần và chỉ trở nên sinh động qua
cuộc sống
đó.